Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, có những người con gái đã không
ngần ngại dành cả thanh xuân cống hiến cho cách mạng, họ đã sống, chiến đấu vì
nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Bà Thái Thị Lá (còn
gọi là bà Tư Lá) – ngụ ấp Bà Trường, xã Phước An là một minh chứng rõ ràng nhất
về hình ảnh người nữ chiến sỹ dân công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
bà vinh dự được Nhà nước trao tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba.
Bà
tham gia cách mạng khi vừa bước qua tuổi 17, là độ tuổi đẹp nhất, nhiều hoài
bão nhất của một người con gái, rồi từ ấy bà tiếp tục sống, chiến đấu, phục vụ
cách mạng cho đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng vào ngày 30/4/1975. Kể lại
quá trình tham gia cách mạng với một sự xúc động, nhiều ký ức chợt ùa về làm,
qua lời kể của bà có thể hình dung rõ bức tranh thời kỳ kháng chiến chống Mỹ của
quân và dân xã Phước An. Năm 1950, bà được Ban huấn luyện triệu tập tham gia đợt
huấn luyện đầu tiên với những kỹ năng chiến đấu cơ bản của người chiến sỹ. Sau
1 tháng xa gia đình để rèn luyện thì bà được ra chiến trường và được phân công
vào đội “dân công hỏa tuyến”, thực hiện nhiệm vụ đào hố phá đường để ngăn xe của
địch; vào rừng, nơi căn cứ của quân ta đóng giữ (xã Phước An) để gánh lúa, giã gạo,
sàng gạo...Mỗi khi có địch tập kích thì bà lại
ôm súng chạy thẳng vào trong rừng cố thủ, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Năm 20 tuổi, bà tiếp tục tham gia đoàn thể phụ nữ bí mật với nhiệm vụ tiếp tế
thức ăn, thuốc men, may vá quần áo cho bộ đội. Lúc này bà cùng với chồng mình
là ông Phan Văn Vỹ cũng là du kích hoạt động cách mạng, ban ngày chồng bà làm
ngư dân đánh bắt cá trên sông, còn ban đêm là cùng bộ đội đánh đồn bốt của địch.
Bà Tư
Lá nhớ lại: “Hồi đó ở sau nhà là rừng, đêm
nào mà nghe ai quăng đá vào vách nhà là tôi biết mấy chú bộ đội về, trong rừng
thiếu thứ gì là mấy chú nhờ tôi mua hộ hoặc có cơm thì cho mấy chú ăn lót dạ, rồi
nhà có gì thì cho cái đó”.
Khi
đó vì đồn bốt của địch đóng gần nhà nên mọi hoạt động đều phải hết sức cẩn thận,
mỗi lần họp Ban liên lạc, bà cùng các nữ chiến sỹ băng rừng nhưng phải đảm bảo
rằng không để lại dấu vết, đường mòn, chỉ bẻ một cành cây nhỏ để làm dấu, họp
xong, để qua mắt địch mỗi người sẽ mang theo giỏ chem chép được các chiến sỹ bộ
đội chuẩn bị sẵn mang về, bà tự nhủ lòng nếu không may bị phát hiện sẽ cho lời
khai giả chứ nhất quyết không hé nửa lời về căn cứ của bộ đội ta.
May
mắn là trong suốt thời gian hoạt động bí mật, bà không bị địch phát hiện, còn
chồng bà ông Phan Văn Vỹ, do tham gia đánh đồn bốt địch, trong lúc thu chiến lợi
phẩm như: súng ống, đạn dược, các vật dụng địch bỏ lại thì bị một tên còn sống
nhận dạng được. Ông bị bắt và giam ở nhà lao Chí Hòa, sau đó thì đày ra nhà tù
Côn Đảo, bị địch tra tấn dã man bằng hình thức chích điện, đánh đập nhưng với một
lòng sắt son, trung thành với cách mạng, ông nhất quyết không khai bất kỳ thông
tin nào về căn cứ Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác, trở về với gia đình khi đất nước
giải phóng, sức khỏe giảm đi vài phần vì bị tra tấn dã man. Cho đến lúc mất đi
ông mãi là tấm gương về tinh thần cách mạng kiên trung, bất khuất, ông được Nhà
nước tặng thưởng Huy chương Kháng chiến hạng Nhất.
Nhắc
về người chồng đã mất, bà Tư Lá không giấu được niềm tự hào, bà kể rằng, chồng
bà thường tiếp tế thuốc men, đường tán, gạo, mắm cho bộ đội trong Đặc khu Rừng
Sác bằng cách chèo xuồng và ngụy trang làm người đánh bắt cá, đồ tiếp tế lúc
nào cũng để một hòn đá to, nếu trên đường gặp tàu địch thì ông sẽ dùng chân đẩy
thẳng xuống sông để phi tang, ngày nào may mắn không gặp tàu địch tuần tra thì
các chiến sỹ bộ đội nhận được thực phẩm, thuốc men đầy đủ.
Bà Tư
Lá xúc động kể: “Mấy chú có đưa tiền
nhưng có thiếu tôi sẽ mua thêm cho đủ những vật dụng các anh cần vì thấy bên địch
được ăn uống sung sướng, thịt cá ngày ba bữa còn bộ đội mình nhiều khi chỉ ăn với
muối xả ớt, cơm độn khoai mà xót. Mỗi lần ban ấp nói dân độn thêm khoai mì để
ăn là biết ta dành gạo cho bộ đội, dân ở ngoài ăn gì cũng được còn bộ đội thiếu
thốn đủ bề, vậy mà vẫn đánh thắng Mỹ mới tài”.
Qua
lời kể của bà, khu vực Phước An khi đó là vùng oanh tạc tự do, máy bay địch mỗi
lần ném bom những nơi khác, còn 1,2 trái bom cũng thả xuống Phước An nên người
dân nơi đây thường xuyên sống trong cảnh phải di tản, nhà nào cũng đào sẵn hầm
để tránh bom rơi, đạn lạc. Đồn bốt địch ở Long Thọ bị đánh sập, địch cũng chỉ
nã đạn vào Phước An vì nghi ngờ có bộ đội đang trú ẩn.
Thật
vậy, không chỉ có mình bà theo cách mạng mà người em trai ruột của bà và 02 người
em chồng cũng tham gia cách mạng từ rất sớm, Bà Tư Lá có người em trai là liệt
sỹ Thái Xuân Quang, giữ chức vụ Trung đội phó, hi sinh tháng 6/1969 khi đang
làm nhiệm vụ tại trạm quân y địa phương, liệt sỹ được trao tặng Huân chương
Kháng chiến Hạng Nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bà Tư Lá nhớ lại,
liệt sỹ Quang là người thông minh, sáng dạ, để em trai được học hành biết chữ
bà đã nhờ cậy hàng xóm giúp đỡ để em trai được đi học và sau đó làm việc cho
quân y, điều trị, cứu chữa cho chiến sỹ, bộ đội bị thương. Liệt sỹ Quang bị
trúng bom khi đang trên đường đi lấy thuốc về căn cứ. Người em chồng của bà là
ông Phan Sơn, lúc bấy giờ ông được tập kết ra Bắc làm trong xưởng quân khí, chế
tạo súng, khi hòa bình lập lại thì về địa phương làm việc.
Nối
tiếp truyền thống cách mạng của gia đình, bà Tư Lá còn là hội viên Hội mẹ truyền
thống xã Phước An, chỉ 2 năm gần đây vì sức khỏe yếu nên bà không đi vận động quần
áo cũ như những năm trước. Ông Phan Tùng Quân, con ruột bà Tư Lá cho hay: “ mỗi khi nhận được tiền trợ cấp là mẹ tôi
không bao giờ tiêu xài cho cá nhân mà có khi xin thêm con cháu mỗi người một ít
để đóng góp cho xã hoặc mua khăn rằn tặng cho các mẹ trong Hội mẹ truyền thống.
Năm nào bà cũng tự đi vận động hàng chục bao quần áo cũ rồi mang lên hội phụ nữ
để tặng cho đồng bào miền Trung bị lũ lụt”.
Thời
bình cũng như thời chiến, bà Lá vẫn giữ vững một niềm tin sắt son vào cách mạng,
vào Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuy đã ở độ tuổi “gần đất xa trời”, mắt bà đã kém hơn
nhiều và những bước chân có phần yếu hơn xưa nhưng bà vẫn giữ được một tinh thần
minh mẫn và một phẩm chất cao quý của người nữ chiến sỹ anh hùng. Có thể nói, tấm
gương của bà Thái Thị Lá chính là bài học quý giá về giàu lòng yêu nước, kiên
cường trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm để thế hệ trẻ hôm nay học tập, noi
theo và càng thêm tự hào về truyền thống cách mạng của quê hương Nhơn Trạch hào
hùng.
Xuân Mai