Là cán bộ lão thành cách mạng với 75 năm
tuổi Đảng, ông Đỗ Hồng Giang (sinh năm 1928), ngụ tại khu phố Mỹ Khoan, thị trấn
Hiệp Phước đã có nhiều đóng góp to lớn cho quân đội ta trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Dù đã ở tuổi "xưa nay hiếm", sức
khỏe giảm sút nhiều song tinh thần vẫn còn rất minh mẫn. Nụ cười và đôi mắt của
ông luôn ánh lên niềm vui, niềm tự hào khi kể về những kỷ niệm của mình và cảm
xúc dâng trào khi hòa bình được lập lại.
Ở tuổi 93, ông Đỗ Hồng Giang vẫn tập thể
thao và chăm sóc cây cảnh
Nhớ lại thời kỳ tham gia kháng chiến, đó vừa là khoảng thời gian đầy gian
khổ nhưng không kém phần oanh liệt của ông và đó cũng chính là những kỷ niệm,
những hồi ức mà ông không bao giờ quên được trong suốt phần đời còn lại.
Ông Giang tâm sự, gia đình ông có truyền thống cách mạng, cả hai người chú
và các anh ruột trong gia đình đều tham gia hoạt động cách mạng, bị địch bắt và
tra tấn dã man, riêng ông ngay từ khi 14 tuổi cũng đã tự thấy bản thân có tinh
thần cách mạng sâu sắc, từ hình ảnh của người chú, người anh của mình đã dần dần
thôi thúc ông phải làm gì đó cho tổ quốc. Ông tình nguyện trở thành người liên
lạc cách mạng thông qua công việc bán báo, từ kinh nghiệm có được, ông tiếp tục
được giao các nhiệm vụ quan trọng hơn, khó khăn hơn.
Năm 1945, ông nghỉ học và bắt đầu tham gia tổ chức Đoàn thanh niên cứu quốc,
thời điểm đó ông chỉ mới 16 tuổi, đến năm 18 tuổi ông chính thức được kết nạp
vào Đảng Cộng sản Việt Nam vào đúng ngày 1/3/1946, sinh hoạt tại Chi bộ huyện
Duyên Hà, tỉnh Thái Bình. Sau đó, ông được tổ chức tin tưởng giao giữ chức vụ
Bí thư Huyện đoàn phụ trách 02 địa phương là huyện Duyên Hà và Hưng Nhân (tỉnh
Thái Bình), sau này hợp nhất thành huyện Hưng Hà ngày nay, với nhiệm vụ bí mật vận
động thanh niên tham gia cách mạng, kháng chiến cứu nước.
Sau đó, ông tiếp tục được Đảng phân công tham gia lực lượng vũ trang của
Việt Minh, thấm nhuần tư tưởng cách mạng và tinh thần dân tộc, không sợ hiểm
nguy, gian khổ, khi đang theo học sĩ quan tại Vân Nam (Trung Quốc), ông Giang
nhận lệnh vận chuyển quân trang, vũ khí, đạn dược cho quân đội ta thực hiện chiến
dịch Biên Giới tại Lạng Sơn, Cao Bằng, công việc vận chuyển vô cùng nặng nhọc,
phải vác vũ khí trên vai và đi bộ gần một tháng mới tiếp viện được cho quân ta.
Vào năm 1953, ông tham gia chiến đấu ở chiến dịch Thượng Lào (Sầm Nưa); năm
1972 tham gia chiến dịch Cánh Đồng Chum và tham gia chiến trường Campuchia với
nhiệm vụ là chuyên gia quân sự, sau 01 năm thì ông về nước. Từ năm 1954 đến năm
1975, ông tiếp nhận nhiệm vụ tại Cục Địch vận (Hà Nội). Sau năm 1975, được sự
điều động của cấp trên, ông Giang vào TP.HCM tiếp tục làm nhiệm vụ địch vận và
vợ ông về Biên Hòa làm việc dưới hình thức tăng cường cán bộ cho các tỉnh kết nghĩa
phía Nam. Thời gian sau, để tiện cho việc chăm sóc ba mẹ khi tuổi già, các con
của ông Giang đã đón vợ chồng ông về sống và phụng dưỡng tại thị trấn Hiệp Phước,
huyện Nhơn Trạch.
Chia sẻ về cơ duyên khi tiếp nhận nhiệm vụ tại Cục Địch vận (Hà Nội), ông
Giang cho biết là nhờ được học tiếng Pháp khi còn là học sinh nên ông được bố
trí nhiệm vụ cơ quan tham mưu cho cấp trên về công tác vận động, tuyên truyền đến
tù binh. Tuy không trực tiếp nói chuyện, cảm hóa, giáo dục binh lính địch nhưng
các văn bản do ông tham mưu được viết bằng Tiếng Pháp cũng giúp binh lính hiểu
được những ưu đãi và chính sách nhân đạo của ta
đối với tù binh. Ông cũng xác định hình thức địch vận là việc làm có khả năng
tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi quan điểm, nhận thức của binh sĩ địch về cuộc
chiến tranh tại Việt Nam.
Ông cũng từng tham gia vào đoàn quân Tây Tiến và cũng từng trải qua sự
hành hạ của căn bệnh sốt rét rừng, nhớ lại khoảng thời gian đó ông không nghĩ rằng
mình có thể chống chọi lại bệnh tật trong hoàn cảnh thiếu thốn về mọi mặt, nhất
là thuốc men. Vì lượng thuốc ký ninh dùng để điều trị sốt rét bị khan hiếm nên
ông và đồng đội phải pha với nước và chia nhau uống để cầm cự; chứng kiến những
đồng đội của mình hi sinh vì bệnh tật ông vẫn luôn tự nhủ lòng phải vượt qua,
phải mau khỏe để tiếp tục được chiến đấu, được cống hiến cho cách mạng. Ông thà
hi sinh trên chiến trường chứ quyết không bỏ mình chốn “rừng thiêng nước độc”.
Sau 1 tuần điều trị, sức khỏe của ông dần hồi phục và có thể đi lại được, không
chờ đợi lâu hơn ông quyết định một mình đi hơn 5km đoạn rừng đầy thú dữ về với trung
đội.
Có thời gian ông cùng đại đội đi thực tập và chiến đấu ở Sơn La, ông kể rằng,
quân đội ta tham gia chiến đấu nhưng lại vô cùng khó khăn, thiếu thốn vũ khí đạn
dược, phải tận dụng lại những vỏ đạn để tái sử dụng và phải có vỏ đạn thì mới đổi
được đạn mới, ngoài ra mỗi lần bắn thì bộ đội ta phải tiến hành thông nòng súng
vì một số vỏ đạn bị kẹt lại bên trong do sử dụng nhiều lần. Khi quân Nhật rút
quân, bộ đội ta thu được nhiều đầu đạn của súng bắn lựu loại 55 mm nhưng lại
không có súng, để có thể sử dụng những đầu đạn này, quân ta đã có sáng kiến bỏ
đầu đạn vào ống tre và treo trên cao để phục kích, khi có quân địch đi vào thì
cắt dây để đầu đạn rơi xuống, tiêu diệt địch.
Ông Giang xúc động chia sẻ: “Lúc đó
không nghĩ mình đánh nổi nhưng chỉ có tinh thần yêu nước, không sợ chết mới là
điều tiên quyết, còn lại những thứ khác chúng ta rất kém so với địch. Sau này,
nhờ có ông Trần Đại Nghĩa mà công binh xưởng mới ngày càng mạnh về chế tạo vũ
khí”.
Ông tâm sự, quân đội ta có những cách đánh giặc vừa sáng tạo nhưng cũng vừa
mạo hiểm, thậm chí muốn tiêu diệt mục tiêu có khả năng phải hi sinh tính mạng,
bộ đội cũng sẵn sàng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Trong chiến đấu đã khó
khăn, gian khổ thì việc ăn uống của bộ đội càng khổ hơn, chủ yếu là ngô, khoai,
sắn; có lúc cầm tiền mua gạo nhưng lại không đủ, may được dân thương nên bán
thiếu, bán lỗ để bộ đội có được bữa cơm; thời kỳ chiến tranh dân ta ai cũng khổ,
cơm không đủ ăn nhưng sẵn sàng “nhường cơm xẻ áo” để tiếp tế cho các chiến sỹ,
bộ đội đánh giặc.
Bị thương do bom đạn trong quá trình tham gia kháng chiến, ông Giang về
hưu sớm khi chỉ hơn 50 tuổi, xác nhận thương binh bậc 2/4, cấp bậc là Trung tá.
Ông Giang cũng chia sẻ: “Sau khi về hưu,
tôi về sống với con cháu tại Biên Hòa, Đồng Nai, sau đó chuyển về sống ở thị trấn
Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch, trong thời gian sinh sống tại địa phương, Đảng và
Nhà nước, chính quyền rất quan tâm, thăm hỏi rất chu đáo; chế độ khám chữa bệnh
cho cán bộ lão thành cũng rất đầy đủ, 1 năm được thăm khám tổng quát 2 lần;
lãnh đạo các cấp cũng đến thăm, tặng quà và chúc mừng dịp lễ, tết”.
Ông Giang có hai người con, con trai ông là ông Đỗ Hồng Sơn (sinh năm
1959) cũng là Đảng viên 34 năm tuổi Đảng, ông Sơn là cán bộ công an tỉnh Đồng
Nai đã về hưu có cấp bậc là Thượng tá. Hai người cháu nội của ông Giang hiện
cũng đang theo ngành công an tại các địa phương trên địa bàn tỉnh và hiện đều
là Đảng viên. Theo ông Sơn, bản thân ông và các con không bị bắt buộc phải học
hoặc theo ngành quân đội hoặc công an nhưng có lẽ vì dòng máu cách mạng và niềm
tự hào khi được nghe kể lại những chiến công của người cha, người ông của mình
thời trẻ đã thôi thúc các con, các cháu tiếp bước sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ nền hòa bình của đất nước.
Tuy tuổi cao sức yếu, thính lực cũng giảm đi vài phần nhưng ông Giang vẫn
là tấm gương sáng cho con cháu noi theo về tinh thần học tập. Khi ở vào độ tuổi
70, để giúp kèm cặp các cháu học Tiếng Anh, ông đã tự mình đạp xe đến trung tâm
học thêm ngoại ngữ, thậm chí ông thi đậu và lấy được Chứng chỉ B Tiếng Anh dưới
sự ngạc nhiên và khâm phục của các học viên khác.
Năm nay, ông Giang đã 93 tuổi nhưng tinh thần vẫn còn minh mẫn, ông nhớ tất
cả các cột mốc thời gian trong thời kỳ tham gia kháng chiến và kể lại vô cùng
rành mạch. Những hồi ức về cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ cứu nước qua lời
kể của ông chính là trang lịch sử sống động nhất, là kho tàng lịch sử quý giá về
người cán bộ lão thành cách mạng kiên trung, anh dũng mà thế hệ ngày nay cần
lưu giữ lại để tiếp tục truyền tải và giáo dục cho con cháu mai sau về tinh thần
cách mạng và truyền thống yêu nước của dân tộc ta.
Xuân Mai